Thời gian qua, việc đảm bảo quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng ở nước ta đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng, được cộng đồng quốc tế công nhận. Tuy nhiên, bất chấp những thành quả ấy, các thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Bạn đang xem: Quyền tự do ngôn luận là chuẩn mực
Các thế lực thù địch ra sức phê phán, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng. Các thế lực thù địch cho rằng: Nhà nước Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet, bao gồm bắt và truy tố tùy tiện những người chỉ trích chính quyền, kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật về hành vi phi bảng mang tính chất hình sự; “chính quyền, dưới chế độ cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xiết chặt vòng kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo”, hay “Chính phủ Việt Nam đã sử dụng lực lượng 47 với khoảng 10.000 chiến binh mạng nhằm chống lại cái mà Chính phủ Việt Nam gọi là lực lượng phản động trên mạng, tức những thông tin chỉ trích Chính phủ”,… Điển hình như vụ việc xảy ra vào năm 2018, trên trang mạng Dân luận và nhiều hãng thông tấn, báo chí phương Tây đã tán phát “Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật”. Văn bản này do những tổ chức xã hội mạng phi pháp và một số cá nhân tự xem mình là người “bất đồng chính kiến” ký. Điều đáng chú ý là có nhiều trang mạng và các cá nhân ở nước ngoài đã hùa theo “Bản lên tiếng...” mà về bản chất là sự xuyên tạc, phủ nhận quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet ở Việt Nam.
Các thế lực thù địch liên tục có hoạt động xuyên tạc về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam
Các đối tượng còn ngộ nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền tuyệt đối nhằm kích động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kế cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội. Thúc đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí đề chống đối chể độ xã hội, đấy thành lập một số tổ xuyên tạc Nhà nước bắt, bỏ tù nhà báo độc lập. Với các tổ chức như “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”, “Nhà báo độc lập”. “Phóng viên không biên giới” để đấu tranh cho cái gọi là tự do ngôn luận. Đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam; gây sức ép đòi thả tự do cho các đổi tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”, “Blogger”…
Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp. Đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà còn là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội của Việt Nam thời gian qua cho thấy những cáo buộc Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, thiếu tự do báo chí là vô căn cứ.
Việt Nam đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
- Tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Trong đó, báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh té, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội.
Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và được thể chế hóa trong các bộ luật liên quan như Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018 và nhiều văn bản pháp luật khác. Cụ thể: Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.
Tính đến năm 2022, cả nước có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình, 77 kênh phát thanh trong nước, 194 kênh truyền hình (7 kênh truyền hình thiết yếu quốc gia, 63 kênh truyền hình thiết yếu địa phương), 57 kênh nước ngoài. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó, khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho thấy, tính tới tháng 9/2022, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%. Vậy vì sao trong số 70 triệu tài khoản Facebook của người Việt chỉ có một số rất ít người, như Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Hoàng Đức Bình, Phạm Đoan Trang,… bị ra tòa? Đó là vì họ đã vi phạm pháp luật.
Thực tế là Nhà nước Việt Nam chỉ xét xử những ai lấy danh nghĩa nhà báo nhưng có hành vi cố tình vi phạm pháp luật, lợi dụng “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, để tuyên truyền, tán phát tài liệu, các bài viết có nội dung xấu độc phá hoại an ninh quốc gia, gây mất an toàn xã hội, kích động bạo lực, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống, truyền thống, văn hóa, lịch sử đất nước, con người Việt Nam. Chẳng hạn Hồ Văn Hải với trang blog và tài khoản Facebook đã đăng nhiều bài viết bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển đã đăng tải nhiều video/clip lên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật. Hoàng Đức Bình vi phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” trong vụ “biểu tình bất bạo động” đòi đuổi Formosa, tụ tập đông người cố tình gây ách tắc Quốc lộ 1A đoạn qua Hà Tĩnh, Nghệ An vào tháng 5/2017. Phạm Thị Đoan Trang với hàng loạt các hành vi như viết hàng trăm tài liệu nội dung xuyên tạc, phản động; thực hiện trên 50 lượt trả lời phỏng vấn các đài báo nước ngoài; viết, tán phát 10 cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc thực trạng dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, đả phá, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hướng dẫn "kỹ năng", cách thức đối phó với cơ quan An ninh như Cẩm nang truyền thông”, “Cẩm nang pháp lý dành cho các bạn hoạt động xã hội”, “Từ facebook xuống đường”. “Anh Ba Sàm”, “Bầu cử phi dân chủ ở Việt Nam”, “Chính trị bình dân”, “Toàn cảnh thảm họa môi trường Formosa ở Việt Nam”, “Phản kháng phi bạo lực”,"Học chính sách công qua chuyện luật khu”... kích động lật đổ chế độ; huy động các đối tượng phản động của VOICE ở trong nước thành lập trang fanpage “Nhà xuất bản Tự do” nhằm xuất bản các đầu sách “nâng cao dân trí” cho giới Dân chủ Việt. Với sự tài trợ của VOICE, Phạm Thị Đoan Trang cùng đám đàn em trong nhóm “Green Trees” gồm: Cao Vĩnh Thịnh, Nguyễn Trường Thịnh, Trần Vũ Anh Bình, Hoàng Thành Nhân, Đặng Vũ Lượng, Nguyễn Đình Hà tổ chức in lậu hàng ngàn cuốn sách... vi phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 và Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015…
- Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc bản cho một nền dân chủ, nhưng không vì thể mà quyên tự do báo chí, tự do ngôn luận hay tự do thông tin không chế; các quyền này không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Như vậy, quyền tự do ngôn luận không phải là tự do tuyệt đối. Hay tại Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng đã nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. Rõ ràng, trong một số trường hợp nhất định, tự do ngôn luận có thể xung đột với các giá trị hay quyền chính đáng khác.
Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm và gây hấn, mà không bị xem là vi hiến. Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự); việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí. Các nước như Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ cũng hình sự hóa các hành vi phỉ báng, xúc phạm danh dự của tổng thống hay các thành viên hoàng gia. Bên cạnh đó, trong nỗ lực chung nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn thù địch, tiêu cực trên internet, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên internet với sự cam kết hành động của bốn doanh nghiệp mạng lớn nhất thế giới bao gồm Facebook, Twitter, Youtube và Microsoft. Rõ ràng, trong bất cứ chế độ chính trị nào cũng không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối, các quốc gia đều xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận; đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung, không phải là sự tuyệt đối hóa tự do cá nhân, không thể lợi dụng tự do ngôn luận để viết, nói, xuyên tạc với ý đồ xấu, bất chấp luân lý và luật pháp.
Thấy rằng, việc Việt Nam xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ nháp luật và được Nhà nước bảo hộ nhưng không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân là hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước. Luật pháp nghiêm cấm các hành vi lợi dụng quyền tự do này để viết bài vu khống, bôi nhọ danh dự cá nhân.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay. Cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng việc thực hiện các quyền tự do nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng phải luôn gắn chặt với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo thực hiện tốt quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, trong đó có tự do ngôn luận, nhưng đi kèm với đó phải là kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để công dân thực hiện quyền tự do, trong đó, có tự do ngôn luận nhưng với những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để làm những điều trái luật, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác; gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc… thì phải nghiêm trị theo pháp luật.
Tạo điều kiện cho công dân thụ hưởng quyền tự do ngôn luận, nhiều năm qua Đảng và Nhà nước Việt Nam không chỉ chú trọng đầu tư phát triển lĩnh vực báo chí, truyền thông, mà còn nỗ lực hoàn thiện hệ thống luật pháp để bảo vệ quyền tự do ngôn luận không bị xâm phạm, lợi dụng.
Cùng với đó, các cơ quan chức năng cũng xây dựng và công bố các văn bản có tính chất khuyến cáo, mà mới đây là Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành nhằm giúp mọi công dân bảo đảm quyền tự do ngôn luận, đồng thời thể hiện ý thức trách nhiệm, giữ gìn thuần phong mỹ tục, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người. Ở Việt Nam, Điều 25 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định công dân có quyền tự do ngôn luận đồng thời nhấn mạnh “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều đó là tương ứng với yêu cầu được đặt ra trong các văn bản quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Như: Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (Tuyên ngôn) xác định mọi người đều có quyền tự do quan niệm, tự do phát biểu quan điểm, tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức, ý kiến bằng phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia; đồng thời, Điều 29 Tuyên ngôn khẳng định khi thực hiện quyền này, mọi người phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng quyền của người khác, đáp ứng các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
Xem thêm: Xây Dựng Chuẩn Mực Nhóm : Quy Trình 10 Bước Chi Tiết, Kỹ Năng Làm Việc Nhóm Là Gì
Tương tự, khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự khẳng định “Mọi người có quyền tự do ngôn luận”, đồng thời khoản 3 Điều 19 nhấn mạnh việc thực hiện quyền này kèm theo nghĩa vụ, trách nhiệm đặc biệt, phải chịu một số hạn chế được quy định trong pháp luật để tôn trọng quyền, uy tín của người khác, bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức...
Trong bối cảnh internet - nổi lên là mạng xã hội phát triển nhanh chóng song rất phức tạp, để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp.
Cụ thể như: Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, Bộ luật Hình sự (với Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, Điều 155 “Tội làm nhục người khác”, Điều 156 “Tội vu khống”, Điều 167 “Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…”, Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”…), Luật Viễn thông (Điều 12 “Các hành vi bị cấm trong hoạt động viễn thông” có khoản 4 là “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”), Bộ luật Dân sự (Điều 32 về “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh”, Điều 34 về “Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín”…); Nghị định 72/2013/NĐ-CP về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng”, Nghị định 15/2020/NĐ-CP “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử”… Để hưởng ứng, năm 2016, Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành “10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam”, đến năm 2018, Hội Nhà báo tiếp tục ban hành “Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam”.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, khi internet và các mạng xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt, thì không chỉ Việt Nam mà các nước trên thế giới đều phải đối diện với những thách thức đến từ sự phức tạp, khó kiểm soát về thông tin có nguồn gốc từ quan điểm coi tự do ngôn luận trên mạng xã hội là tuyệt đối, không có giới hạn. Xét từ quan hệ bản chất - hiện tượng, tự do - tất yếu, khách quan - chủ quan, trong rất nhiều trường hợp nếu không vượt qua, nếu không chế định được các thách thức, mọi người đều có thể bị xúc phạm, tiến công trên mạng xã hội mà khó có cơ hội đòi lại danh dự và công bằng. Thậm chí ở tầm quốc gia cũng có thể nguy cơ rơi vào tình trạng hỗn loạn về thông tin - yếu tố có thể gây rối loạn nhân tâm, rối loạn xã hội.
Vì thế, không chỉ Việt Nam, mà các nước trên thế giới cũng đều có biện pháp kiên quyết về pháp luật, vừa khuyến cáo công dân ứng xử văn minh trên mạng xã hội, để tự do ngôn luận vận hành tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển lành mạnh của xã hội, con người. Căn cứ sự lựa chọn đường hướng phát triển, truyền thống văn hóa, điều kiện, bối cảnh cụ thể,… mà mỗi quốc gia đều xây dựng hệ thống tiêu chí luật pháp riêng về tự do ngôn luận cho đất nước mình.
Như tại Singapore, với luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối trực tuyến, tin giả (fake news) được coi là đi ngược lợi ích và ổn định cộng đồng, làm tổn hại an ninh và an toàn cộng đồng, làm tổn hại sức khỏe, kích động sự hận thù giữa các nhóm xã hội, suy giảm niềm tin vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, làm tổn hại quan hệ giữa Singapore với các quốc gia khác; nếu bị phát hiện đưa tin giả lên mạng xã hội, khi nhà chức trách yêu cầu cải chính mà không chấp hành, có thể sẽ bị phạt đến 20.000 đô-la Singapore hoặc 12 tháng tù (hoặc cả hai). Singapore cũng có quy định về việc nói xấu, phỉ báng, vu khống trong sinh hoạt hằng ngày và trên mạng xã hội sẽ phải đối diện án phạt đến 100.000 đô-la Singapore hoặc phạt tù tới 3 năm (hoặc cả hai); tội vu khống, nói xấu được áp dụng mức phạt đến 20.000 đô-la Singapore hoặc phạt tù 12 tháng (hoặc cả hai).
Ở Mỹ, giới hạn về tự do ngôn luận thể hiện qua án lệ của tòa án, cho phép chính quyền có quyền ngăn chặn, trừng phạt phát ngôn có tính khiêu dâm, phỉ báng, tục tĩu, xúc phạm, gây hấn. Tối cao pháp viện Mỹ đã khẳng định tự do ngôn luận không có nghĩa là có quyền bịa chuyện vu khống, phỉ báng cá nhân. Ở Pháp, Đức,… các bộ luật liên quan tự do ngôn luận đều đặt ra những giới hạn, chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm dụng tự do ngôn luận làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, đồng thời chống lại việc vu khống, bôi nhọ, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, kích động bạo lực, gây hận thù, xâm phạm đời tư cá nhân... Việc bày tỏ quan điểm trên internet cũng chịu sự điều chỉnh của luật báo chí.
Ngoài ra còn có rất nhiều những quy định, quy tắc mang tính chế tài khác như Quy tắc hành nghề cho các nhà cung cấp nền tảng truyền thông xã hội trực tuyến ở Anh; Bộ Quy tắc ứng xử trên truyền thông xã hội và bình luận trực tuyến ở Australia... Không chỉ mỗi quốc gia riêng biệt, Liên minh châu Âu (EU) cũng ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên internet, Facebook, Twitter, Google cũng đã hỗ trợ thiết lập Bộ Quy tắc ứng xử với cam kết bảo đảm tiếp cận nhanh chóng, đánh dấu và gỡ bỏ các phát ngôn thù địch cùng nội dung bất hợp pháp trên các nền tảng của họ. Đến năm 2020, mạng xã hội Tik
Tok cũng đã gia nhập Bộ Quy tắc ứng xử này.
Tại Việt Nam dù đã có những quy định luật pháp cụ thể, các cơ quan chức năng đã nhiều lần khuyến cáo, và nhiều phát ngôn, hành vi vi phạm bị xử lý nghiêm khắc, song gần đây tình trạng sai phạm trong phát ngôn, bình luận, đưa tin, đề cập và bàn luận về tổ chức hoặc người khác trên một số mạng xã hội đang có chiều hướng gia tăng, thậm chí diễn ra khá phức tạp.
Trong khi nhiều người Việt Nam không phân biệt lứa tuổi, giới tính, sắc tộc, học vấn, vùng miền,… sử dụng mạng xã hội làm phương tiện kết nối với người thân, bạn bè cùng sở thích để chia sẻ, tâm sự, trao đổi, học hỏi, giúp đỡ trau dồi tri thức, truyền bá và nhân rộng các giá trị chân - thiện - mỹ,… thì vẫn còn không ít cá nhân đã ứng xử tùy tiện, thiếu văn hóa thậm chí tiêu cực trên mạng xã hội, khiến dư luận xã hội không khỏi bất bình, lên tiếng gay gắt. Dường như các công dân đó lầm tưởng mạng xã hội là nơi tự do ngôn luận không có giới hạn, không ở trong phạm vi hiệu lực của luật pháp quốc gia, không liên quan đến chuẩn mực văn hóa cộng đồng, nên họ ứng xử bất chấp luật pháp, chuẩn mực văn hóa? Rồi khi cơ quan chức năng khuyến cáo, xử lý, họ lại lớn tiếng cho rằng quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm, tạo cớ để kẻ xấu lợi dụng vu cáo Việt Nam!
Về bản chất, khi đưa ra ý kiến, bình luận, chia sẻ nội dung,… trên mạng xã hội là tổ chức, cá nhân đã thực hiện một hành vi liên quan tự do ngôn luận. Ý kiến, bình luận, chia sẻ,… có ý nghĩa tích cực hay tiêu cực, văn hóa hay phản văn hóa, đều trực tiếp tác động đến người xem, nghe. Như vậy, hành vi nêu trên không còn ở trong giới hạn phạm vi cá nhân, mà là hoạt động cộng đồng, vì thế phải tuân thủ những giới hạn mà luật pháp cho phép. Vượt qua giới hạn đó, tổ chức, cá nhân sẽ tự đẩy mình đến chỗ vi phạm pháp luật, nên cần được khuyến cáo để tự điều chỉnh.
Vì thế việc Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội (Bộ Quy tắc) với những tiêu chí: “tôn trọng, tuân thủ pháp luật; lành mạnh; an toàn bảo mật thông tin; trách nhiệm” là cần thiết, phù hợp. Cũng cần lưu ý, dù các tiêu chí không kết hợp yêu cầu về thưởng - phạt, chỉ là khuyến cáo nhưng từ ý thức trách nhiệm của công dân cũng như với cộng đồng, nếu mọi người tham gia mạng xã hội đều ứng xử theo tiêu chí của Bộ Quy tắc sẽ góp phần quan trọng để xây dựng môi trường mạng an toàn, lành mạnh tại Việt Nam.